Tổ chức lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013
Thực hiện Kế
hoạch số 05/KH-UBDTSĐBSHP ngày 05 tháng 5 năm 2025 của Ủy ban dự thảo sửa
đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013, Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Bình
tổ chức lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp về Dự thảo Nghị quyết sửa đổi,
bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Thời
gian lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp về Dự thảo Nghị quyết bắt đầu từ
ngày 06 tháng 5 năm 2025 và hoàn thành vào ngày 05 tháng 6 năm 2025.
Đối tượng lấy ý kiến: Các tầng lớp Nhân dân;
các cơ quan, tổ chức ở trung ương và địa phương; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các tổ chức thành viên; các chuyên gia, nhà khoa học.
Nội dung lấy ý kiến: Lấy ý kiến Nhân dân,
các ngành, các cấp về toàn bộ dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều
của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, bao gồm bố cục,
nội dung và kỹ thuật trình bày.
Hình thức tổ chức lấy ý kiến
Các cá nhân có thể góp ý kiến trực tiếp trên ứng dụng
VNeID, Cổng Thông tin điện tử Quốc hội, Cổng Thông tin điện tử Chính
phủ hoặc gửi ý kiến bằng văn bản gửi đến các cơ quan có trách nhiệm tổng
hợp ý kiến của Nhân dân.
Các cơ quan, tổ chức, theo chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn, yêu cầu tiến độ, tình hình thực tế của cơ quan, tổ chức, địa phương mình,
chủ động lên kế hoạch tổ chức các hội nghị, hội thảo, tọa đàm để lấy ý kiến đối
tượng thuộc phạm vi quản lý, các chuyên gia, nhà khoa học.
Chính quyền địa phương các cấp tổ chức lấy ý kiến Nhân
dân bằng các hình thức phù hợp với điều kiện thực tiễn theo quy định của pháp
luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở.
Tài liệu phục vụ lấy ý kiến Nhân dân, các
ngành, các cấp bao gồm:
1. Kế hoạch số
05/KH-UBDTSĐBSHP ngày 05 tháng 5 năm 2025 của Ủy ban dự thảo sửa đổi, bổ sung
một số điều của Hiến pháp năm 2013 về tổ chức lấy ý kiến Nhân dân, các ngành,
các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013;
2. Dự thảo Nghị quyết sửa
đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 2013;
3. Bản thuyết minh về
dự thảo Nghị quyết;
4. Bản so sánh các nội
dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy
định hiện hành của Hiến pháp.
Thời gian lấy ý kiến:
Thời gian lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các
cấp về dự thảo Nghị quyết bắt đầu từ ngày 06 tháng 5 năm 2025 và hoàn
thành vào ngày 05 tháng 6 năm 2025.
Nội dung chi tiết của các văn bản:
QUỐC HỘI
Nghị quyết số:
/2025/QH15
Dự thảo
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc
lập - Tự do - Hạnh phúc

|
NGHỊ
QUYẾT
Sửa
đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp
nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013
QUỐC HỘI
Căn
cứ Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013;
Căn
cứ Nghị quyết số 194/2025/QH15 ngày 05 tháng 5 năm 2025 của Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung một
số điều của Hiến pháp năm 2013,
QUYẾT
NGHỊ:
Điều 1
Sửa
đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 2013 như sau:
1.
Sửa đổi, bổ sung Điều 9 như sau:
“Điều 9
1.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của
tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá
nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt
Nam định cư ở nước ngoài.
Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam là bộ phận của hệ thống chính trị của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; là cơ sở chính trị của chính quyền
nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; thể hiện ý chí,
nguyện vọng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận
xã hội; giám sát, phản biện xã hội; phản ánh ý kiến, kiến nghị của Nhân dân đến
các cơ quan nhà nước; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại
nhân dân, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
2.
Công đoàn Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí
Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam là các tổ chức
chính trị - xã hội trực thuộc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, được thành lập trên cơ
sở tự nguyện, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành
viên, hội viên tổ chức mình; được tổ chức và hoạt động thống nhất trong Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam; cùng với các tổ chức thành viên khác của Mặt trận hiệp thương
dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động dưới sự chủ trì của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam.
3.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và
các tổ chức xã hội khác hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật,
điều lệ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, điều lệ của mỗi tổ chức. Nhà nước tạo
điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và
các tổ chức xã hội khác hoạt động.”.
2.
Sửa đổi, bổ sung Điều 10 như sau:
“Điều 10
Công
đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của người
lao động, trực thuộc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; đại diện, chăm lo và bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp, chính đáng cho đoàn viên công đoàn và người lao động; là đại
diện của người lao động ở cấp quốc gia trong quan hệ lao động và quan hệ quốc tế
về công đoàn; tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội; tham gia
kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị,
doanh nghiệp về những vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người lao động;
tuyên truyền, vận động người lao động học tập, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề
nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.”.
3.
Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 84 như sau:
“1.
Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội,
Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán
nhà nước, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có quyền trình dự án luật
trước Quốc hội, trình dự án pháp lệnh trước Ủy ban Thường vụ Quốc hội.”.
4.
Sửa đổi, bổ sung Điều 110 như sau:
“Điều 110
1.
Các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gồm tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương và các đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương.
2.
Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập.
3.
Việc xác định các loại đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương và trình tự, thủ tục thành lập, giải thể, nhập, chia đơn vị hành chính, điều
chỉnh địa giới đơn vị hành chính do Quốc hội quy định.”.
5.
Sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 111 như sau:
“2.
Chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được tổ chức
ở đơn vị hành chính phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị
hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội quy định.”.
6.
Sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 112 như sau:
“2.
Nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương được xác định trên cơ sở
phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương và
của chính quyền địa phương từng cấp.”.
7.
Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 114 như sau:
“1.
Ủy ban nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu là cơ quan chấp hành của Hội
đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước
Hội đồng nhân dân và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên.”.
8.
Sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 115 như sau:
“2.
Đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền chất vấn Chủ tịch Ủy ban nhân dân, các
thành viên khác của Ủy ban nhân dân và người đứng đầu cơ quan thuộc Ủy ban nhân
dân. Người bị chất vấn phải trả lời trước Hội đồng nhân dân. Đại biểu Hội đồng
nhân dân có quyền kiến nghị với các cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị ở địa
phương. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị này có trách nhiệm tiếp đại biểu,
xem xét, giải quyết kiến nghị của đại biểu.”.
Điều 2
1.
Nghị quyết này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2025.
2. Kể từ ngày Nghị quyết này có hiệu lực thi hành, kết
thúc hoạt động của đơn vị hành chính cấp huyện trong cả nước.
3.
Khi kiện toàn tổ chức bộ máy của các cơ quan sau khi thực hiện sắp xếp đơn vị
hành chính và kết thúc hoạt động của đơn vị hành chính cấp huyện trong năm 2025
thì không tiến hành bầu các chức danh Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân,
Trưởng các Ban của Hội đồng nhân dân, Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Ủy viên Ủy ban
nhân dân tại đơn vị hành chính hình thành sau sắp xếp; không bầu Trưởng đoàn, Phó
Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hình
thành sau sắp xếp. Căn cứ thông báo của cấp ủy có thẩm quyền quản lý cán bộ, Ủy
ban Thường vụ Quốc hội chỉ định Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Trưởng
các Ban của Hội đồng nhân dân, Trưởng đoàn, Phó Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội của các tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương hình thành sau sắp xếp; Thủ
tướng Chính phủ chỉ định Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân của các tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương hình thành sau sắp xếp; Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh chỉ định
Ủy viên Ủy ban nhân dân của tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương hình thành sau sắp xếp và chỉ định Chủ tịch,
Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Trưởng các Ban của Hội đồng nhân dân, Chủ tịch,
Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân của đơn vị hành chính cấp xã hình thành sau sắp xếp;
Thường trực Hội đồng nhân dân cấp xã chỉ định Ủy viên Ủy ban nhân dân của đơn vị
hành chính cấp xã hình thành sau sắp xếp. Trường hợp đặc biệt, cho phép chỉ định
nhân sự không phải là đại biểu Hội đồng nhân dân giữ các chức danh lãnh đạo Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp xã hình thành sau sắp xếp.
Nghị quyết này được
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XV, kỳ họp thứ 9 thông
qua ngày … tháng … năm 2025.
|
CHỦ
TỊCH QUỐC HỘI
Trần
Thanh Mẫn
|
QUỐC
HỘI KHÓA XV
ỦY BAN DỰ THẢO SỬA ĐỔI,
BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA
HIẾN PHÁP NĂM 2013
|
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập -
Tự do - Hạnh phúc
Hà Nội, ngày 05 tháng 5 năm 2025
|
BẢN THUYẾT MINH
Về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp
nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam năm 2013
Ngày 05/5/2025, Quốc hội khóa XV đã thảo luận và thông qua Nghị quyết số 194/2025/QH15
với 452 đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành (chiếm tỷ lệ 100% số đại biểu có mặt và 94,56% tổng số đại biểu Quốc
hội). Theo đó, Quốc hội đã quyết định xem xét sửa đổi, bổ sung một số
điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013
để thực hiện chủ trương sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính
trị với phạm vi sửa đổi tập trung vào các quy định của Hiến pháp năm 2013 về
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và việc phân định
đơn vị hành chính, tổ chức chính quyền địa phương.
Ủy ban dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 được
Quốc hội thành lập theo Nghị quyết số 195/2025/QH15 ngày 05/5/2025 đã tổ chức
xây dựng dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến
pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 với phạm vi đã
được Quốc hội xác định. Dự thảo Nghị
quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 gồm có 02 điều; Điều 1 gồm 08
khoản sửa đổi, bổ sung một số quy định của Hiến pháp năm 2013 về Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, về đơn vị hành chính và tổ
chức chính quyền địa phương; Điều 2 gồm 03 khoản quy định về hiệu lực thi hành
và điều khoản chuyển tiếp. Sau đây là thuyết minh về dự thảo Nghị quyết:
1. Về Điều 1 của dự thảo Nghị quyết
1.1. Sửa đổi, bổ sung quy định về Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các tổ chức chính trị - xã hội (Điều 9 của Hiến pháp năm 2013)
Theo quy định của Hiến pháp năm 2013, Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam được xác định là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của
tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai
cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài
(khoản 1 Điều 9); nguyên tắc hoạt động cơ bản của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các tổ chức thành viên là phối hợp và
thống nhất hành động trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (khoản 2 Điều 9). Khi phối hợp và thống nhất hành
động, các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tuân theo Điều lệ
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đồng thời vẫn giữ tính độc lập của tổ chức mình (khoản 3 Điều 4 của Luật Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015).
Qua rà soát việc thực hiện các quy định của Hiến pháp
năm 2013 về tổ chức, hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
chính trị - xã hội cho thấy, hệ thống các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc trung gian, chức năng, nhiệm vụ còn
có sự giao thoa, trùng lắp; có lúc, có nơi chưa thực hiện sâu sát cơ sở, nắm
tình hình Nhân dân chưa kịp thời; vẫn còn tồn tại tình trạng một việc nhiều tổ
chức cùng làm, một người tham gia nhiều tổ chức; nguyên tắc hiệp thương dân chủ
- một trong những nguyên tắc hoạt động cơ bản, nền tảng thể hiện bản chất liên
hiệp tự nguyện của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam vẫn chưa được quy định cụ thể
trong Hiến pháp.
Thực hiện chủ trương của Đảng về
thu gọn đầu mối, nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức trong hệ thống
chính trị, Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã đề ra
nhiệm vụ nghiên cứu sắp xếp lại các tổ chức chính trị - xã hội, hội quần chúng
do Đảng và Nhà nước giao nhiệm vụ về trực thuộc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (đồng
bộ với cơ cấu tổ chức đảng hiện nay). Điều này đòi hỏi phải sắp xếp, tổ chức
lại bộ máy tổ chức của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã
hội để thích ứng với tình hình mới, đáp ứng yêu cầu gần dân, sát dân, đại diện,
bảo vệ tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân.
Để làm rõ vai trò cốt lõi của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, nhấn mạnh vị trí của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức trung tâm của
khối đại đoàn kết toàn dân, tạo cơ sở pháp lý cho việc sắp xếp lại các tổ chức
thành viên, giảm bớt sự trùng lặp trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, bảo
đảm thống nhất và đồng bộ với cơ cấu tổ chức đảng, phù hợp với mô hình tổ chức
mới sau khi sắp xếp, tinh gọn các tổ chức chính trị - xã hội vào Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, trên cơ sở đề xuất của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, đề nghị sửa đổi, bổ sung Điều 9 của Hiến pháp năm 2013 như sau:
(1) Khẳng định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là bộ phận
của hệ thống chính trị của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; tập
hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; thể hiện ý chí, nguyện vọng
và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp, chính đáng của Nhân dân; thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội;
giám sát, phản biện xã hội; phản ánh ý kiến, kiến nghị của Nhân dân đến các cơ
quan nhà nước; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân,
góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
(2) Quy định khái quát về các tổ chức chính trị - xã
hội theo hướng khẳng định vị trí của các tổ chức này
trực thuộc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; bổ sung, làm rõ nguyên tắc hoạt động của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là hiệp thương dân chủ,
phối hợp và thống nhất hành động dưới sự chủ trì của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Cụ thể: Công đoàn Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam là các tổ
chức chính trị - xã hội trực thuộc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, được thành lập
trên cơ sở tự nguyện, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng
của thành viên, hội viên tổ chức mình; được tổ chức và hoạt động thống nhất
trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; cùng với các tổ chức thành viên khác của Mặt
trận hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động dưới sự chủ trì của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
1.2. Sửa đổi, bổ sung quy định về
Công đoàn Việt Nam (Điều 10 của Hiến pháp năm 2013)
Để bảo đảm sự kế thừa hợp lý của các bản Hiến pháp trong việc ghi nhận
vị trí, vai trò của tổ chức Công đoàn, thống nhất với quy định tại Điều 4 của
Hiến pháp năm 2013 và nội dung sửa đổi, bổ sung tại Điều 9 của Hiến pháp năm
2013 như đã nêu ở trên, phù hợp với tổ chức công đoàn sau khi thực hiện sắp
xếp, đề nghị sửa đổi, bổ sung Điều 10 theo hướng khẳng định Công đoàn Việt Nam
là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động,
trực thuộc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Đồng thời, trong bối cảnh hội
nhập kinh tế quốc tế, Bộ luật Lao động năm 2019 cho phép thành lập tổ chức của
người lao động tại doanh nghiệp ngoài hệ thống Công đoàn Việt Nam; trên thực tế,
đã xuất hiện tình trạng có những tổ chức bất hợp pháp mượn danh đại diện cho
người lao động Việt Nam để đề nghị tham gia các tổ chức quốc tế về lao động và
công đoàn với mục đích chống phá Đảng, Nhà nước và tổ chức Công đoàn. Do vậy,
cần có những sửa đổi, bổ sung để ghi nhận vị trí, vai trò của Công đoàn Việt
Nam là đại diện của người lao động ở cấp quốc gia trong quan hệ lao động và
quan hệ quốc tế về công đoàn để khẳng định vị trí quan trọng, không thể thay
thế của Công đoàn Việt Nam trong quan hệ lao động, đại diện cho giai cấp công
nhân và người lao động, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng
cho đoàn viên công đoàn và người lao động.
Theo tinh thần đó, bên cạnh chức
năng, nhiệm vụ của Công đoàn Việt Nam đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013
là đại diện, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người
lao động; tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội, tham gia kiểm
tra, thanh tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh
nghiệp về những vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người lao động, đề
nghị bổ sung nhiệm vụ của Công đoàn Việt Nam tại Điều 10 của Hiến pháp năm 2013
là đại diện của người lao động ở cấp quốc
gia trong quan hệ lao động và quan hệ quốc tế về công đoàn.
1.3. Sửa đổi, bổ sung quy định về quyền trình dự án luật, dự án pháp lệnh của các tổ
chức chính trị - xã hội (Điều 84 của Hiến pháp năm 2013)
Dự thảo
Nghị quyết sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 84 theo hướng chỉ quy định về quyền
trình dự án luật trước Quốc hội, trình dự án pháp lệnh trước Ủy ban Thường vụ
Quốc hội của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam mà không tiếp tục quy
định quyền này cho các cơ quan trung ương của tổ chức thành viên của Mặt trận
để bảo đảm thống nhất với các nội dung sửa đổi, bổ sung về vị trí, chức năng,
nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
thành viên tại Điều 9 của Hiến pháp năm 2013, phù hợp với tổ chức bộ máy của Ủy
ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam sau khi sắp xếp, tinh gọn các cơ quan
trung ương của các tổ chức chính trị - xã hội, các hội quần chúng do Đảng, Nhà
nước giao nhiệm vụ ở trung ương vào Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Ủy ban Trung ương Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam có nhiệm vụ tiếp nhận, tổng hợp các kiến nghị, đề xuất của các
tổ chức chính trị - xã hội cũng như các tổ chức thành viên khác của Mặt trận,
nghiên cứu, xem xét và quyết định việc trình dự án luật, dự án pháp lệnh khi
thấy cần thiết và có đủ điều kiện thực hiện.
1.4. Sửa đổi, bổ sung quy định về tổ chức đơn vị hành chính (Điều 110 của Hiến pháp năm
2013)
Điều 110 của Hiến pháp năm 2013 quy định đơn vị hành
chính của nước ta gồm trên 10 loại đơn vị hành chính với tên gọi khác nhau
thuộc 03 cấp (cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã). Mô hình tổ chức chính quyền địa
phương 03 cấp đã phát huy vai trò, đóng góp tích cực trong các giai đoạn xây
dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, trong bối cảnh tình
hình mới, trước yêu cầu đẩy mạnh ứng dụng các thành tựu của khoa học, công
nghệ, chuyển đổi số trong quản trị quốc gia và địa phương, việc tổ chức đơn vị
hành chính theo 03 cấp đã bộc lộ sự kém hiệu quả, chồng chéo về chức năng,
nhiệm vụ, gây lãng phí nguồn lực của đất nước, chưa phát huy được tối đa tiềm
năng, lợi thế của từng đơn vị hành chính. Việc duy trì cấp chính quyền trung
gian làm cho các mệnh lệnh quản lý từ chính quyền cấp tỉnh xuống tới cấp xã bị
cắt khúc, triển khai chậm, không phù hợp với xu thế chuyển đổi số, ứng dụng
công nghệ thông tin vào quản lý, điều hành và hội nhập quốc tế. Nghiên cứu kinh
nghiệm quốc tế cho thấy, nhiều quốc gia đã thực hiện việc sắp xếp, thu gọn đầu
mối đơn vị hành chính, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong chỉ đạo,
điều hành, giúp tăng cường hiệu quả quản lý, giảm chi phí hành chính mà vẫn gần
dân, sát dân. Thực tiễn ở Việt Nam cũng đã thực hiện việc nhập một số đơn vị
hành chính trên cả nước, cho thấy khả năng bảo đảm hiệu quả quản lý đối với các
đơn vị hành chính có quy mô lớn hơn.
Thực hiện chủ trương sắp xếp tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính
trị, Nghị quyết số 60-NQ/TW
ngày 12/4/2025 Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tổ chức chính quyền
địa phương 02 cấp và kết thúc hoạt động của đơn vị hành chính cấp huyện từ ngày
01/7/2025, cần sửa đổi, bổ sung Điều 110 của
Hiến pháp năm 2013 theo hướng quy định mô hình địa phương 02 cấp, đồng thời không
quy định quá chi tiết về hệ thống các đơn vị hành chính với tên của từng loại
đơn vị ở từng cấp như hiện nay. Trên cơ sở
đó, đề nghị sửa đổi, bổ sung Điều 110 như sau: Các đơn vị hành chính của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gồm tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và
các đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Đơn vị hành
chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập. Việc xác định các loại đơn vị
hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và trình tự, thủ tục
thành lập, giải thể, nhập, chia đơn vị hành chính, điều chỉnh địa giới đơn vị
hành chính do Quốc hội quy định. Quy định này sẽ tạo điều kiện để tiếp tục cụ
thể hóa mô hình đơn vị hành chính và chính quyền địa phương 02 cấp tại Luật Tổ
chức chính quyền địa phương (sửa đổi) cũng đang được trình Quốc hội xem xét,
thông qua tại Kỳ họp thứ 9 này. Hiện tại, dự án Luật Tổ chức chính quyền địa
phương (sửa đổi) đang dự kiến quy định xã là đơn vị hành chính ở nông thôn; phường là đơn vị hành chính ở đô
thị và đặc khu là đơn vị hành chính ở hải đảo. Việc sử dụng cụm từ “đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương” là bảo đảm thống nhất với nội dung đã được quy định tại
khoản 8 Điều 74 và khoản 4 Điều 96 của Hiến pháp hiện nay.
1.5. Sửa đổi, bổ sung một số quy định khác về chính quyền
địa phương
- Trong thực
tế hiện nay, việc sử dụng thuật ngữ “cấp
chính quyền địa phương” để chỉ chính quyền địa phương tại những đơn vị hành
chính tổ chức đồng thời cả Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân dễ gây nhầm lẫn
với thuật ngữ “chính quyền địa phương”
nói chung, bao gồm cả những địa phương hiện nay đang tổ chức mô hình chính
quyền đô thị (không tổ chức Hội đồng nhân dân). Thể chế hóa kết luận của Trung
ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về tổ chức chính quyền địa phương cấp tỉnh, cấp
xã có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, đề nghị sửa đổi, bổ sung các
điều 111, 112, 114 của Hiến pháp năm 2013 theo hướng
quy định tổ chức chính quyền địa phương gồm Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân; không sử dụng thuật ngữ “cấp chính
quyền địa phương” để thể hiện tính thống nhất về mô hình tổ chức chính
quyền địa phương, tránh gây nhầm lẫn, tạo ra các cách hiểu khác nhau về tổ chức
chính quyền ở địa phương; rà soát, chỉnh lý một số quy định để phù hợp với mô
hình tổ chức của hệ thống chính trị sau khi thực hiện sắp xếp, tinh gọn. Cơ bản
giữ nguyên các quy định về nguyên tắc tổ chức và chế độ làm việc của Hội đồng
nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp xã như hiện nay.
- Tại khoản 2 Điều 115 của Hiến
pháp năm 2013 đang quy định đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền chất vấn Chánh
án Tòa án nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân. Thực tế hiện nay, việc
chất vấn đối với Chánh án Tòa án nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
chỉ thực hiện tại Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện. Sắp tới, thực hiện chủ
trương của Đảng về kết thúc hoạt động của đơn vị hành chính cấp huyện sẽ không
tổ chức Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện mà thay thế bằng các
Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân khu vực không gắn với một đơn vị hành
chính cụ thể nên sẽ không có Hội đồng nhân dân ngang cấp để thực hiện quyền
chất vấn. Do vậy, đề nghị sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 115 của Hiến pháp năm
2013 theo hướng không quy định Chánh án Toà án nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân thuộc phạm vi đối tượng trả lời chất vấn của đại biểu Hội đồng
nhân dân. Việc chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân sẽ tập trung vào Ủy ban
nhân dân (Chủ tịch Ủy ban nhân dân, các thành viên khác của Ủy ban nhân dân và
người đứng đầu cơ quan thuộc Ủy ban nhân dân) để nâng cao hiệu quả hoạt động
trên thực tế. Tuy không quy định về thẩm quyền
chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân đối với Chánh án Toà án nhân dân và
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân song Hội đồng nhân dân vẫn thực hiện thẩm
quyền giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương, trong đó bao
gồm giám sát hoạt động của Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và của các
cơ quan nhà nước khác trên địa bàn. Đại biểu Hội đồng nhân dân vẫn có quyền
kiến nghị với các cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị ở địa phương (trong đó có
Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân ở địa phương) và người đứng đầu các cơ
quan, tổ chức, đơn vị có trách nhiệm tiếp đại biểu, xem xét, giải quyết kiến
nghị của đại biểu. Do đó, vẫn bảo đảm cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước giữa
các cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền ở địa phương.
2. Về Điều 2 của dự thảo Nghị quyết
2.1. Về hiệu lực thi hành
Để tạo cơ sở pháp lý cho việc kiện toàn, sắp xếp về tổ chức, cán bộ, ban
hành các văn bản pháp luật có liên quan để thực hiện chủ trương sắp xếp, tinh
gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, đặc biệt là để Chính phủ kịp ban
hành văn bản quy định, hướng dẫn, phân định lại nhiệm vụ, quyền hạn của các cấp
chính quyền địa phương trong các lĩnh vực quản lý nhà nước khi không còn tổ
chức chính quyền cấp huyện, đề nghị xác định thời
điểm có hiệu lực thi hành của Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp
năm 2013 là từ ngày 01/7/2025.
2.2. Về điều khoản chuyển
tiếp
- Nghị quyết số 60-NQ/TW ngày 12/4/2025 Hội nghị
lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã thống nhất khẳng định: “Đồng ý chủ trương tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp:
cấp tỉnh (tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương), cấp xã (xã, phường, đặc khu
trực thuộc tỉnh, thành phố); kết thúc hoạt động của đơn vị hành chính cấp huyện
từ ngày 01/7/2025 sau khi Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp
năm 2013 và Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2025 (sửa đổi) có hiệu lực
thi hành”, vì vậy, trong dự thảo Nghị quyết này cần có quy định để chính thức
tuyên bố việc kết thúc hoạt động của đơn
vị hành chính cấp huyện đang có hiện nay trên phạm vi cả nước. Trên cơ sở đó, các luật, nghị quyết của Quốc hội sẽ xác
định một khoảng thời gian chuyển tiếp phù hợp để các cơ quan ở cấp huyện hoàn
thành việc bàn giao, kết thúc hoạt động; các cơ quan từ cấp tỉnh
đến cấp xã sau khi sắp xếp (bao gồm cả chính quyền, Mặt trận, đoàn thể, Tòa án
nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân) kịp rà soát, tiếp nhận cán bộ, công chức,
nhiệm vụ, quyền hạn của cấp huyện, kiện toàn về tổ chức bộ máy, điều kiện làm
việc để chính thức đi vào hoạt động, thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo quy
định mới của các luật, nghị quyết; bảo đảm các cơ quan sau khi thực hiện sắp xếp, sáp nhập
hoạt
động thông suốt, đồng bộ, hiệu lực, hiệu quả, thực
hiện đầy đủ các nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định mới của các luật, nghị quyết
theo đúng tiến độ yêu cầu, không để gián đoạn công việc, không bỏ trống địa
bàn, lĩnh vực, không để ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của cơ quan, đơn
vị, tổ chức, xã hội và người dân.
- Để kịp thời thể chế hóa
Kết luận số 150-KL/TW ngày 14/4/2025 của Bộ Chính trị hướng dẫn xây dựng phương
án nhân sự cấp ủy cấp tỉnh thuộc diện hợp nhất, sáp nhập và cấp xã thành lập
mới, đề nghị trong dự thảo Nghị quyết cần có điều khoản chuyển tiếp (khoản 3 Điều 2) quy định việc chỉ định
các chức danh của Hội đồng nhân
dân,
Ủy ban nhân dân và Trưởng đoàn, Phó trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội để tạo cơ sở
pháp lý cho việc kiện toàn tổ chức bộ máy của các cơ quan trong đợt sắp xếp đơn vị hành chính cấp
tỉnh, cấp xã năm 2025 và kiện toàn tổ chức bộ máy của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân nhiệm kỳ 2021 - 2026 khi không còn đơn vị hành chính
cấp huyện.
Lý do của việc cần áp
dụng cơ chế này trước hết là do tính chất hết sức đặc biệt của việc sắp xếp đơn
vị hành chính lần này. Ngoài quy mô rất lớn, mang tính toàn quốc của việc nhập
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã, chúng
ta còn kết hợp thực hiện chủ trương lớn của Đảng về việc không tổ chức đơn vị
hành chính cấp huyện, các cơ quan thuộc chính quyền địa phương cấp huyện sẽ kết
thúc hoạt động cùng thời điểm sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh, cấp xã. Trong
điều kiện tổ chức bộ máy có sự thay đổi, biến động lớn như vậy, thời gian còn
lại của nhiệm kỳ Hội đồng nhân dân chỉ còn rất ngắn, đại biểu Hội đồng nhân dân ở các đơn vị hành chính hình
thành sau sắp xếp được tập hợp từ nhiều đơn vị hành chính trước đó khó có điều
kiện nhận biết, đánh giá chính xác về năng lực của đội ngũ cán bộ sau sắp xếp.
Bên cạnh đó, để đáp ứng yêu cầu bố trí, sắp xếp cán bộ, đặc biệt cán bộ đang
công tác ở cấp huyện đến làm việc ở cơ quan mới tại cấp tỉnh, cấp xã, khai thác
tối đa nguồn nhân lực hiện có, thì việc áp dụng cơ chế chỉ đinh đối với người
giữ chức vụ lãnh đạo ở các cơ quan Ủy ban nhân dân, Hội đồng nhân dân tại các đơn vị thực hiện
sắp xếp là cần thiết, đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Tuy hình thức là chỉ định nhưng
công tác lựa chọn, giới thiệu nhân sự vẫn phải được tiến hành hết sức chặt chẽ
và do cấp ủy có thẩm quyền quản lý cán bộ thực hiện theo đúng quy định của
Đảng. Cơ chế này chỉ thực hiện trong năm 2025 để phục vụ việc sắp xếp các đơn
vị hành chính lần này gắn với nội dung được sửa đổi, bổ sung của Hiến pháp (về
việc không tổ chức đơn vị hành chính cấp huyện), còn sau bầu cử đại biểu Hội
đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2026 - 2031 và các năm tiếp theo tiếp tục thực
hiện bầu nhân sự bình thường theo đúng quy định hiện hành, Hội đồng nhân dân sẽ bầu các chức danh của
Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân.
Trên đây là Thuyết minh về dự thảo
Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam năm 2013, Ủy ban dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến
pháp năm 2013 trân trọng báo cáo.
ỦY
BAN DỰ THẢO SỬA ĐỔI, BỔ SUNG
ỦY BAN DỰ THẢO SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA HIẾN PHÁP NĂM 2013
Tháng 5 - 2025
STT
|
QUY ĐỊNH CỦA
HIẾN PHÁP NĂM 2013
|
DỰ THẢO SỬA ĐỔI, BỔ SUNG
MỘT SỐ ĐIỀU CỦA HIẾN PHÁP NĂM 2013
|
|
Điều 9
1. Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ
chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân
tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt
Nam định cư ở nước ngoài.
Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội;
giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối
ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
|
Điều 9
1. Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị,
các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong
các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước
ngoài.
Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam là bộ phận của hệ thống chính trị của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo;
là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân tộc; thể hiện ý chí, nguyện vọng và phát huy quyền làm chủ
của Nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; thực
hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; phản ánh ý kiến,
kiến nghị của Nhân dân đến các cơ quan nhà nước; tham gia xây dựng Đảng, Nhà
nước, hoạt động đối ngoại nhân dân, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
|
2. Công
đoàn Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh,
Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam là các tổ chức
chính trị - xã hội được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện và bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành viên, hội viên tổ chức mình;
cùng các tổ chức thành viên khác của Mặt trận phối hợp và thống nhất hành động
trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
|
2. Công đoàn Việt Nam,
Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ
nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam là các tổ chức chính trị - xã hội trực thuộc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp, chính đáng của thành viên, hội viên tổ chức mình; được tổ chức và hoạt động thống nhất trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
cùng với các tổ chức thành viên khác của Mặt trận hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động dưới sự chủ trì của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam.
|
3. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt
trận và các tổ chức xã hội khác hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và
pháp luật. Nhà nước tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức
thành viên của Mặt trận và các tổ chức xã hội khác hoạt động.
|
3. Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và các tổ chức xã hội
khác hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, điều lệ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, điều
lệ của mỗi tổ chức. Nhà nước tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
các tổ chức thành viên của Mặt trận và các tổ chức xã hội khác hoạt động.
|
2.
|
Điều 10
Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân
và của người lao động được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện cho người
lao động, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao
động; tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội; tham gia kiểm
tra, thanh tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh
nghiệp về những vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người lao động;
tuyên truyền, vận động người lao động học tập, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề
nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
|
Điều 10
Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội
của giai cấp công nhân và của người lao động được thành lập trên cơ sở tự
nguyện, trực thuộc Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam; đại diện, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng
cho đoàn viên công đoàn và người
lao động; là đại diện của người lao động
ở cấp quốc gia trong quan hệ lao động và quan hệ quốc tế về công đoàn;
tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội; tham gia kiểm tra,
thanh tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh
nghiệp về những vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người lao động;
tuyên truyền, vận động người lao động học tập, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề
nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
|
|
Điều 84
1. Chủ tịch nước, Ủy
ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Chính phủ, Toà
án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước, Ủy
ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cơ quan trung ương của tổ chức
thành viên của Mặt trận có quyền trình dự án luật trước Quốc hội, trình dự án
pháp lệnh trước Ủy ban thường vụ Quốc hội.
2. Đại biểu Quốc hội có
quyền trình kiến nghị về luật, pháp lệnh và dự án luật, dự án pháp lệnh trước
Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội.
|
Điều 84
1. Chủ tịch
nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Chính
phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà
nước, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cơ quan trung ương của
tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền trình dự án luật trước Quốc hội,
trình dự án pháp lệnh trước Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
2. Đại
biểu Quốc hội có quyền trình kiến nghị về luật, pháp lệnh và dự án luật, dự
án pháp lệnh trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội.
|
|
Điều
110
1. Các đơn vị hành chính của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được phân định như sau:
Nước chia thành tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương;
Tỉnh chia thành huyện, thị xã
và
thành phố thuộc tỉnh; thành phố
trực thuộc trung ương chia thành quận, huyện, thị xã và đơn vị hành chính
tương đương;
Huyện chia thành xã, thị trấn;
thị xã và thành phố thuộc tỉnh chia thành phường và xã; quận chia
thành phường.
Đơn vị hành chính - kinh tế đặc
biệt do Quốc hội thành lập.
2. Việc thành lập, giải thể, nhập,
chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính phải lấy ý kiến Nhân dân địa
phương và theo trình tự, thủ tục do luật định.
|
Điều 110
1. Các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam gồm tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và các đơn vị hành
chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
2. Đơn vị hành chính - kinh tế
đặc biệt do Quốc hội thành lập.
3. Việc xác định các loại đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương và trình tự, thủ tục thành lập, giải thể, nhập, chia đơn
vị hành chính, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính phải lấy ý kiến Nhân
dân địa phương do Quốc hội quy định.
|
|
Điều 111
1. Chính
quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.
2. Cấp
chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được tổ chức
phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế
đặc biệt do luật định.
|
Điều
111
1. Chính quyền địa phương
được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
2. Cấp Chính quyền địa
phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được tổ chức ở đơn vị hành chính phù hợp với đặc điểm
nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội quy định.
|
|
Điều 112
1.
Chính quyền địa phương tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật
tại địa phương; quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; chịu sự kiểm
tra, giám sát của cơ quan nhà nước cấp trên.
2.
Nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương được xác định trên cơ sở
phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương
và của mỗi cấp chính quyền địa phương.
3. Trong
trường hợp cần thiết, chính quyền địa phương được giao thực hiện một số nhiệm
vụ của cơ quan nhà nước cấp trên với các điều kiện bảo đảm thực hiện nhiệm vụ
đó.
|
Điều 112
1. Chính
quyền địa phương tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật tại
địa phương; quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; chịu sự kiểm
tra, giám sát của cơ quan nhà nước cấp trên.
2. Nhiệm
vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương được xác định trên cơ sở phân định
thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương và của chính quyền địa phương từng cấp.
3. Trong trường hợp cần thiết,
chính quyền địa phương được giao thực hiện một số nhiệm vụ của cơ quan nhà nước
cấp trên với các điều kiện bảo đảm thực hiện nhiệm vụ đó.
|
|
Điều 114
1. Ủy ban nhân
dân ở cấp chính quyền địa phương do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu là cơ quan
chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu
trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên.
2. Ủy ban nhân dân tổ chức việc thi hành Hiến pháp và pháp
luật ở địa phương; tổ chức thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân và thực
hiện các nhiệm vụ do cơ quan nhà nước cấp trên giao.
|
Điều
114
1. Ủy ban nhân dân ở cấp chính quyền địa phương do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu là cơ
quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa
phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân và cơ quan hành chính nhà nước
cấp trên.
2. Ủy ban nhân dân tổ chức
việc thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương; tổ chức thực hiện nghị quyết
của Hội đồng nhân dân và thực hiện các nhiệm vụ do cơ quan nhà nước cấp trên
giao.
|
|
Điều 115
1. Đại biểu Hội đồng
nhân dân là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân địa phương;
liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri, thực hiện chế độ tiếp
xúc, báo cáo với cử tri về hoạt động của mình và của Hội đồng nhân dân, trả lời
những yêu cầu, kiến nghị của cử tri; xem xét, đôn đốc việc giải quyết khiếu nại,
tố cáo. Đại biểu Hội đồng nhân dân có nhiệm vụ vận động Nhân dân thực hiện Hiến
pháp và pháp luật, chính sách của Nhà nước, nghị quyết của Hội đồng nhân dân,
động viên Nhân dân tham gia quản lý nhà nước.
2. Đại biểu Hội đồng
nhân dân có quyền chất vấn Chủ tịch Ủy ban nhân dân, các thành viên khác của Ủy
ban nhân dân, Chánh án Toà án nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và
Thủ trưởng cơ quan thuộc Ủy ban nhân dân. Người bị chất vấn phải trả lời trước
Hội đồng nhân dân. Đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền kiến nghị với các cơ
quan nhà nước, tổ chức, đơn vị ở địa phương. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức,
đơn vị này có trách nhiệm tiếp đại biểu, xem xét, giải quyết kiến nghị của đại
biểu.
|
Điều
115
1. Đại biểu Hội đồng nhân dân là người đại diện
cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân địa phương; liên hệ chặt chẽ với cử tri,
chịu sự giám sát của cử tri, thực hiện chế độ tiếp xúc, báo cáo với cử tri về
hoạt động của mình và của Hội đồng nhân dân, trả lời những yêu cầu, kiến nghị
của cử tri; xem xét, đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo. Đại biểu Hội
đồng nhân dân có nhiệm vụ vận động Nhân dân thực hiện Hiến pháp và pháp luật,
chính sách của Nhà nước, nghị quyết của Hội đồng nhân dân, động viên Nhân dân
tham gia quản lý nhà nước.
2. Đại biểu
Hội đồng nhân dân có quyền chất vấn Chủ tịch Ủy ban nhân dân, các thành viên
khác của Ủy ban nhân dân, Chánh án Toà án nhân dân, Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân và người đứng đầu
cơ quan thuộc Ủy ban nhân dân. Người bị chất vấn phải trả lời trước Hội đồng
nhân dân. Đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền kiến nghị với các cơ quan nhà
nước, tổ chức, đơn vị ở địa phương. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị
này có trách nhiệm tiếp đại biểu, xem xét, giải quyết kiến nghị của đại biểu.
|
Nguồn tin: Cổng thông tin điện tử tỉnh Ninh Bình